Huỳnh Tâm Hoài đang viết quyển hồi ức về cuộc đời anh, từ thuở nhỏ cho đến lúc già. Câu chuyện không kém phần hấp dẫn và không biết khi nào hoàn thành. Tuy nhiên, với lòng quý mến trang nhà anh đã gửi cho chúng ta đọc những trang đầu tiên còn nóng hổi của anh (SOS)
Ông nội tôi vốn là người Tiều Châu chánh gốc từ bên Tàu sang Việt
Qua việc mở mang bờ cõi, chúa Nguyễn chiếm lấy đất của Chiêm Thành và Chân Lạp để thành lập tỉnh Bình Định năm 1558, Phú Yên năm 1611, Khánh Hòa năm 1653, Biên Hòa, Gia Định năm1698 và Hà Tiên năm 1708…và cứ thế tiền dần về phương Nam. Lảnh thổ Phù
Số quan, quân đời nhà Minh không hàng phục nhà Thanh nên cũng chạy sang Việt
Các vùng đất thuộc Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh thì số người Hoa thường sống bằng nghề buôn bán, định cư trên các con giồng xen lẩn với người Khơme và người Việt. Thường thì nhóm người di dân sống theo các bờ sông rạch để tiện việc buôn bán giao lưu khắp các vùng. Ngày nay số đình, miếu rải rác ở các nơi người Hoa Việt cư ngụ, các Làng, Sóc với các ngôi chùa xây dựng theo kiến trúc của người Khmer nơi người Khmer cư ngụ. Ba sắc dân sống trộn lẩn nhiều đời làm nên một nền văn minh miền đất giồng rất đa dạng và phong phú. Gọi là đất giồng bởi lẻ đất ở đây hình thành bằng những bồi lấp từ biển, những con giồng hình cong lưởi sóng lấn dần ra biển qua nhiều năm tháng. Cư dân lần lượt qui tựu trên những giồng đất cao lập ấp, lập làng, sinh sống. Người Khmer thường làm ruộng, làm rẩy. Còn hai sắc dân còn lại cư ngụ theo các bờ kinh sông rạch, sống bằng nghề buôn bán. Về lâu, sự giao lưu văn hóa, phong tục, tập quán, nếp sống trộn hoà nhau rất đặc biệt hơn các nơi khác.
Về xuất xứ di dân của ông nội, tôi chỉ là nghe những người lớn kể lại không biết có chính xác không? khi lớn lên có một chút hiểu biết thì ông đã qua đời lâu rồi. Chỉ biết ông nội gốc người Tiều Châu tìm về đất Trà Vinh và sinh sống tại làng Long Hiệp, quận Trà Cú cho đến mãn đời tại đây. Khi còn ở Quảng Châu ông nội có một đời vợ. Có lẽ ông nội có liên lạc với bà nội bên Tàu, cho nên khi bà nội sau sinh chú Năm thì bà có sang thăm ông nội và có ý xin chú Năm đem về Tàu nuôi. Bà nội sau không bằng lòng. Bà nội trước sau đó về lại Quảng Châu. Sau khi ông nội mất thì biến loạn vì chiến tranh năm 45 xảy ra. Làng xóm tản cư tứ tán có lẻ vì đó mà cho mãi tới sau nầy khi chúng tôi lớn lên và cho tới ngày nay thì mất liên lạc luôn với bà nội ở bên Quảng Châu.
Trong gia đình chúng tôi cách gọi người trên, kẻ dưới theo tập tục người Tiều Châu Việt
Riêng tôi thì khi lớn lên học chữ Việt, học lịch sử Việt, có gần hết một nửa đời sống với đất quê Việt. Tôi thấm nhuần văn hóa Việt. Từng ngọn rau cọng cỏ, từng lạch nước con sông.Từng bờ mương, bờ dậu.Từng giọng ru con à ơi, nhịp võng đu đưa. Từng tiếng hát, tiếng hò, nhất là bài ca vọng cỗ đã lẩn vào hồn tôi, bật lên trong lời nói, biểu lộ ra trong tình cãm của tôi như da với thịt không thể tách rời được. Tôi là người Việt. Tôi yêu nước Việt mặc dù trong máu tôi có trộn lẩn gốc người Tàu.
Ông bà nội của tôi sống với nhau có được sáu người con: ba trai, ba gái. Tôi có hai bà cô lớn. Ba tôi đứng thứ ba, con trai lớn nhất của ông bà nội, kế đến là hai chú, sau cùng là cô út. Vì là con trai lớn nên ông nội dạy cho ba buôn bán và biết cách đánh bàn tính Tàu từ lúc còn nhỏ. Sau khi gả hai cô đi rồi, ông nội lo kiếm vợ cho ba. Khi ba cưới má về thì ông giao luôn cho ba má tôi quản lý cửa tiệm. Một cửa tiệm chạp phô nhỏ ở trong Sóc Bến Chùa thuộc làng Long Hiệp.
(còn nữa)
Huỳnh Tâm Hoài