Vầng trăng, ánh trăng, bóng trăng… trong văn học và cả trong dân gian cũng có rất nhiều tên để gọi. TRĂNG chữ Nho là NGUYỆT 月, theo thần thoại Trung Hoa trong mặt trăng có cây quế, nên còn gọi trăng là Vầng NGUYỆT QUẾ 月桂, và vì trong trăng còn có những vùng tranh tối tranh sáng, nên lại gọi là QUẾ PHÁCH 桂魄, như 2 câu đầu trong bài thơ Thu Dạ Khúc 秋夜曲 của Vương Nhai 王涯 đời Đường là :
桂魄初生秋露微, QUẾ PHÁCH sơ sanh thu lộ vi,
輕羅已薄未更衣。 Khinh la dĩ bạc vị canh y.
Có nghĩa :
TRĂNG vừa mới mọc sương thu nhẹ,
Mỏng mảnh áo là chửa kịp thay.
Ngoài QUẾ PHÁCH, trăng còn được gọi là QUẾ CUNG 桂宫 mà thi sĩ Tản Đà nhà ta đã gọi là CUNG QUẾ trong bài thơ “Muốn Làm Thằng Cuội”:
Đêm thu buồn lắm! CHỊ HẰNG ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
CUNG QUẾ đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều tả nàng cung nữ thất sủng trong cung với tâm trạng :
Trong CUNG QUẾ âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần…
CHỊ HẰNG tức Hằng Nga, người Hoa ít khi gọi bằng HẰNG NGA 姮娥, mà thường gọi Chị Hằng là THƯỜNG NGA 嫦娥. Như trong bài thơ “Thường Nga 嫦娥” của Lý Thương Ẩn trong buổi tàn Đường :
雲母屏風燭影深, Vân Mẫu bình phong chúc ảnh thâm,
長河漸落曉星沉. Trường hà tiệm lạc hiểu tinh trầm.
嫦娥應悔偷靈藥, THƯỜNG NGA ưng hối thâu linh dược,
碧海青天夜夜心. Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm !
Có nghĩa :
Bình phong Vân mẫu nến lay thềm,
Sao rụng Ngân hà trở sáng thêm.
Trộm thuốc HẰNG NGA chừng tiếc nuối,
Trời xanh biển biếc hận đêm đêm !
Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du gọi Trăng là GƯƠNG NGA, BÓNG NGA. Trong buổi đầu khi Kim Kiều gặp gỡ; lúc trở về nhà, đêm đó khi :
GƯƠNG NGA chênh chếch vòm sông,
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân.
Hải đường lã ngọn đông lân,
Giọt sương trĩu nặng cành xuân la đà…
thì Thúy Kiều đã :
Một mình lặng ngắm BÓNG NGA,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời !…
Theo thần thoại Trung Hoa, Thường Nga hay Hằng Nga là vợ của anh hùng xạ nhựt Hậu Nghệ 后羿, người đã bắn rơi chín cái mặt trời là chín con qụa lửa thiêu đốt nhân gian, nên được bà Tây Vưong Mẫu tặng cho viên thuốc trường sinh bất tử. Hằng Nga đã lén trộm thuốc của chồng uống vào, nên thân hình nhẹ nhõm bay lên và bay tuốt… vào cung trăng lạnh lẽo, rồi trở thành chủ nhân của cung Quảng Hàn và con Thỏ Ngọc giả thuốc trường sinh. Vì tích nầy mà mặt trăng còn được gọi là QUẢNG HÀN CUNG 廣寒宫 hay CUNG QUẢNG, như khi Thúy Kiều nhớ Thúc Sinh lúc chàng về thăm Hoạn Thư :
Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
Liều như CUNG QUẢNG Ả HẰNG nghĩ nao !
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa Vành Trăng khuyết, ba sao giữa trời !
Vì có con Thỏ Ngọc giã thuốc trong trăng, nên mặt trăng còn được gọi là NGỌC THỐ 玉兔. Khi Vương Quan kể lể về thân thế của ca nhi Đạm Tiên đã kết bằng 2 câu :
Trãi bao THỎ LẶN ÁC TÀ,
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm !
THỎ LẶN là Trăng lặn, ÁC TÀ là Mặt Trời chiều; Trăng lặn là hết đêm, Mặt Trời về chiều là hết ngày. Nên THỎ LẶN ÁC TÀ chỉ ngày tháng qua đi. “Trãi bao THỎ LẶN ÁC TÀ,” là biết bao là ngày tháng đã qua đi !
Cũng theo thần thoại Trung Hoa, trong cung trăng lại có con Thiềm Thừ 蟾蜍 (con cóc) ba chân; vì các hố thiên thạch trên bề mặt mặt trăng trông giống như các hoa văn trên lưng con Thiềm Thừ; Lại có tích cho rằng vì Hằng Nga trộm thuốc bay lên cung trăng nên mới bị trời phạt biến thành con Thiềm Thừ tinh. Vì thế người Hoa còn gọi Cung Trăng là THIỀM CUNG 蟾宫. Trong bài thơ Ức Giang Thượng Ngô Xử Sĩ 憶江上吳處士của Thi Nô Giả Đảo 賈島 có câu :
閩國揚帆去, Mân quốc dương phàm khứ,
蟾蜍虧復圓。 THIỀM THỪ khuy phục viên.
Có nghĩa :
Mân Nam giương buồm tách bến,
THIỀM THỪ đang khuyết đã tròn.
Còn trong truyện Nôm khuyết danh Trinh Thử của ta cũng có câu :
THIỀM CUNG bóng đã tà tà,
Khuyên rằng mau trở lại nhà với con.
Trong cung trăng còn có một nhân vật nam là Ngô Cương 吴剛, vốn là lính gác Nam Thiên môn, tình cờ gặp được Hằng Nga qúa đẹp, nên ở lại cung trăng chơi một ngày, bị Ngọc Đế phạt phải đốn cây Quế trong cung Quảng Hàn. Tương truyền hễ Ngô Cương ban cành quế cho ai thì người đó sẽ thi đỗ Trạng Nguyên, vì thế mà hình thành thành ngữ THIỀM CUNG CHIẾT QUẾ 蟾宫折桂. Có nghĩa là “Bẻ Quế Cung Thiềm” để chỉ những người thi đậu. Trong truyện Nôm khuyết danh Phạm Tải Ngọc Hoa của ta cũng có câu :
Những mong BẺ QUẾ nên danh,
Mà đền công dưỡng sinh thành hai thân.
Qua đến Việt Nam ta thì Ngô Cương thành Chú Cuội, và Cành Quế thành Cành Đa. Cũng trong bài thơ “Muốn Làm Thằng Cuội” của Tản Đà cũng có câu :