Trung Học Chợ Lách

Phiếm Luận : ĐÔNG là MÙA ĐÔNG

Ngày đăng: 14/11/2025, 7:10 chiều, ý kiến phản hồi (0)
 ĐÔNG 冬 là mùa Đông, mùa cuối cùng trong năm sau mùa Thu và trước mùa Xuân của năm sau. Tính theo Âm lịch thì mùa Đông là các tháng Mười, Mười Một và tháng Chạp trong năm, nhưng nếu tính theo Dương lịch thì là các tháng Mười Hai, tháng Giêng và tháng Hai. Còn nếu ở Nam Bán cầu như các nước Úc, nước Tạn Tây Lan thì mùa Đông là các tháng Sáu, tháng Bảy và tháng Tám.
       Theo Âm lịch thì trong mùa đông, có tất cả 6 KHÍ TIẾT 氣節 (Khí hậu về Thời tiết) được phân bố như sau :
       * Tháng Mười có 2 Khí tiết là :
             – Lập Đông 立冬 thường lọt vào ngày 7-8 tháng 11 Dương lịch.
             – Tiểu Tuyết 小雪 thường lọt vào ngày 21-23 tháng 11 Dương lịch.
       * Tháng Mười Một có 2 Khí Tiết là :
             – Đại Tuyết 大雪 thường lọt vào ngày 6-8 tháng 12 Dương lịch.
             – Đông Chí 冬至 thường lọt vào ngày 21-23 tháng 12 Dương lịch.
       * Tháng Mười Hai có 2 Khí Tiết là :
             – Tiểu Hàn 小寒 thường lọt vào ngày 5-7 tháng Giêng Dương lịch.
             – Đại Hàn 大寒 thường lọt vào ngày 19-21 tháng Giêng Dương lịch.
       Đặc biệt ĐÔNG CHÍ là ngày có thời gian ban đêm dài nhất trong năm ở Bắc bán cầu, trái với HẠ CHÍ là ngày có thời gian ban ngày dài nhất trong năm, như câu tục ngữ mà ông bà ta vẫn thường truyền tụng là :
                Tháng Năm chưa nằm đã sáng, và…
                Tháng Mười chưa cười đã tối.
      Theo nghĩa mặt chữ thì ĐÔNG CHÍ 冬至 có nghĩa là “Mùa Đông đã đến rồi” và cũng có nghĩa là ngày tháng của năm cũ sắp hết, năm đã sắp tàn rồi; Nên Tiết Đông Chí 冬至節 cũng là một cái Tiết lớn ở cuối năm, mọi người có dịp gặp nhau để hàn huyên những chuyện của năm qua, cùng đoàn viên và cùng ăn chè ỷ, chè trôi nước (người Hoa gọi là Thang Viên 湯圓) nấu để cúng tế ông bà tổ tiên mừng cho một năm đã đi qua trong bội thu và bình an viên mãn. Cúng tế mừng Tiết Đông Chí cũng có nghĩa là mừng cho gia đình được đoàn viên để cùng đón mừng tuổi mới. Ăn chè ỷ của Tiết Đông Chí rồi là đã thêm được một tuổi mới rồi đó, nếu có qua đời thì cũng được đếm thêm một tuổi thọ nữa…
             Inline image
      Nhớ hồi còn nhỏ, khi cô tôi giúp mẹ nấu một nồi chè ỷ, chè trôi nước thật lớn để mừng Tiết Đông Chí, cô đã nói với tôi là :”Năm nay cháu đã mười tuổi rồi, vậy là mừng tuổi năm mới cháu phải ăn 11 viên chè trôi nước”. Tôi bèn cười nói với cô rằng :”Nếu cô ăn nổi 20 viên, thì cháu cũng sẽ ăn 11 viên cho cô xem”. Anh tôi bèn chen vào nói :”Anh thì ăn nổi 15 viên rồi đó, còn ba má làm sao ăn nổi 50 viên, đừng nói chi đến ông nội tới 70 tuổi lận !” Trong niềm vui cuối năm cả nhà sum họp để cùng nấu cùng cúng và cùng ăn những viên chè tròn tượng trưng cho sự đoàn viên tròn trịa của cuối năm, thì cũng có người vì công danh, vì sinh kế mà phải tha phương cầu thực… Tiết Đông Chí mà chưa được về quê, một mình một bóng cô thân nơi xứ lạ quê người như bài thất ngôn tứ tuyệt “Hàm Đan Đông Chí dạ tư gia 邯鄲冬至夜思家” (Ở xứ Hàm Đan đêm Đông Chí nhớ nhà) của Thi Bá Bạch Cư Dị sau đây :
                邯鄲驛裡逢冬至,   Hàm Đan dịch lý phùng Đông Chí,
                抱膝燈前影伴身。   Bão tất đăng tiền ảnh bạn thân.
                想得家中夜深坐,   Tưởng đắc gia trung dạ thâm tọa,
                還應說著遠行人。   Hoàn ưng thuyết trước viễn hành nhân !
      Có nghĩa :
          Ở nơi dịch quán của đất Hàm Đan nầy lại nhằm lúc Tiết Đông Chí đến, ta cũng đành ngồi bó gối trước ánh đèn mà bầu bạn với cái bóng của mình mà thôi. Nhớ về quê nhà giờ nầy chắc mọi người đang quây quần đoàn tụ ngồi với nhau trong đêm… và chắc cũng đang nhắc đến ta, một kẻ đi xa không về nhà được trong lễ tiết cuối năm nầy.
      Trông người lại ngẫm đến ta, nếu Tiết Đông Chí nầy ta có về lại được quê nhà thì cũng không tìm đâu ra người xưa cảnh cũ; Thời gian nửa thế kỷ biết bao là tang thương biến đổi, đã xóa hết những hình ảnh kỷ niệm của “Những ngày xưa thân ái” đi rồi !
                  Dịch quán Hàm Đan Đông Chí rồi,
                  Trước đèn bó gối bóng đơn côi.
                  Quê nhà sum họp ngồi tâm sự,
                  Chắc cũng xa vời nhớ đến tôi !
        Lục bát :
                  Hàm Đan Đông Chí đến rồi,
                  Bên đèn bó gối đơn côi bóng mình.
                  Nhớ nhà đoàn tụ đêm thanh,
                  Chắc đang nhắc đến những thành viên xa !…
       Nếu mùa thu làm cho cỏ cây hoa lá héo hon vàng úa, thì mùa đông lạnh lẽo khắc nghiệt vùi chôn tất cả hoa lá cỏ cây, tạo nên cảnh tiêu điều lạnh lùng tang tóc khắp nơi với ngập trời tuyết trắng, với bầu trời u ám buồn thương… như Jean. Leiba đã viết :
                 Xuân tàn, hạ cỗi, cảnh thu sầu,
                 Mờ mịt hơi đông ám ngọn lau…
       và cụ thể hơn như trong bài thơ “Bốn mùa yêu thương” của ông :
                 Nhưng một ngày đông nhiều mộng héo,
                 Đầy trời mưa lạnh, lá vàng gieo.
                 Em buồn, chẳng nỡ nhìn ta nữa,
                 Ta thấy trời đông bỗng lạnh nhiều !
       Mùa Thu là mùa của tình buồn, thì mùa đông là tình của những mối tình tan vỡ, xót xa… như trong thơ của Huyền Kiêu :
                  Đông xám lại chàng tới hỏi :
                  Em thơ, chị đẹp em đâu ?
                  Chị tôi hoa phủ đầy đầu,
                  Đã ngủ trong lòng mộ tối !…
 
                Inline image
      Gió thu xạc xào hiu hắt, còn gió đông thì se sắt lạnh lùng. Gió mùa đông là gió từ phương bắc thổi xuống. Bắc phương Nhâm Qúy thuộc Thủy, nên gió từ miền Bắc cực thổi xuống mang theo hơi nước giá lạnh của vùng tuyết băng khô khan lạnh lẽo. Hướng Bắc còn được gọi là hướng Sóc, nên Bắc Phong 北風 còn được gọi là SÓC PHONG 朔風 như trong bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt “Tòng Quân Hành 從軍行 (kỳ 4)” của Lệnh Hồ Sở 令狐楚 đời Đường :
                SÓC PHONG thiên lý kinh,        朔風千里驚,
                Hán nguyệt ngũ canh minh.     漢月五更明。
                Túng hữu hoàn gia mộng,        縱有還家夢,
                Do văn xuất tái thinh !            猶聞出塞聲。
      Có nghĩa :
                     Ngàn dặm gió bấc thổi,
                     Năm canh trăng quê nhà.
                     Dẫu có mộng hoàn gia,
                     Còn nghe lời xuất tái !
 Song thất Lục bát :
                Gió bấc thổi làm kinh lính thú,
                Trăng Hán gia vằng vặc canh tà.
                Dẫu cho mơ được về nhà,
                Bên tai còn vẳng tiếng ra ải ngoài !
            Inline image
      Gió Bắc khô khan lạnh lẽo của mùa đông, còn được bà con ta gọi trại thành GIÓ BẤC, nên mới có những câu Ca Dao trong dân gian Nam Bộ như sau :
                 Gió Bấc non thổi lòn hang chuột,
             Thấy chị hai mầy tao đứt ruột đứt gan !
      và…
                 Gió Bấc non thổi lòn hang dế,
            Thấy chị hai mầy tao bế hế băng hăng !
      Còn chàng thi sĩ Nguyễn Bính đa tình của thời Tiền Chiến, trong bài thơ “Mùa Đông Gửi cố nhân” đã rên rỉ :
                Mưa phùn Gió Bấc, cố nhân ơi,
                Áo rét nàng đan lỡ hẹn rồi.
                Sông lạnh khi nàng ra giũ lụa,
                Với dùm trong nước lấy hồn tôi.
      và trong bài “Mùa Đông Nhớ Cố Nhân” thì Nguyễn Bính lại nhắn gửi :
                Mưa phùn đầy cữ chửa cho thôi,
                Gió Bấc đêm nay buốt suốt giời.
                Giường mộng con thoi còn chạy lẻ,
                Hay là nàng đã dệt thoi đôi ?
            Inline image
      Trong văn học cổ có một thành ngữ về mùa Đông là THU THÂU ĐÔNG TÀNG 秋收冬藏, có nghĩa là : Mùa Thu là mùa của thu hoạch nông phẩm ngày xưa, còn mùa Đông là mùa phải cất giữ lại những nông phẩm thu hoạch đó để chi dùng trong những tháng mùa đông lạnh lẽo giá buốt. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ sách《Sử Ký, Sử Thái Công Tự Tự 史记·太史公自序》với cả câu như sau : “Phù xuân sanh hạ trưởng, thu thâu đông tàng, thị thiên đạo chi đại kinh 夫春生夏长,秋收冬藏,是天道之大经” Có nghĩa : Phàm (vạn vật) mùa xuân thì sanh sôi nẩy nở, mùa hè thì phát triển trưởng thành, mùa thu thì thâu hoạch thành quả, mùa đông cất giữ (để chi dùng và để làm hạt giống cho năm sau), đó là cái lý lẽ lớn của đạo trời (chỉ sự tuần hoàn của vũ trụ và hoạt động trong đời sống con người). Các nông phẩm mang chữ ĐÔNG mà ta thường thấy thường dùng là :
      – ĐÔNG QUA 冬瓜 (東瓜) là trái Bí Đao (tên khoa học là Benincasa pruriens), thường dùng để nấu canh và làm mức bí trong ngày Tết Nguyên Đán.
      – ĐÔNG THÁI 冬菜 là Cải Hủ, dân Chợ Lớn gọi theo tiếng Tiều Châu là “Cải Tan-xại” dùng để chưng thịt cá hoăc làm gia vị cho Hủ tiếu Mì khi ăn.
      – ĐÔNG TRÙNG THẢO 冬蟲草 còn gọi là Đông Trùng Hạ Thảo 冬蟲夏草 là một loại đông dược quý , được sử dụng từ lâu trong y học cổ truyền Trung Hoa và y học cổ truyền Tây Tạng; Hiện đang là dược thảo thịnh hành khắp thế giới.
                     Inline image
      – ĐÔNG DUẪN 冬筍(笋)là Măng Tre mọc vào mùa đông, có tên là MĂNG MẠNH TÔNG 孟宗筍, có vị ngọt dòn ngon nhất trong các loại măng, có xuất xứ từ Truyện thứ 17 của “Nhị Thập Tứ Hiếu 二十四孝” do Quách Cư Nghiệp 郭居業 (có sách ghi là Quách Cư Kính 郭居敬) vào thời nhà Nguyên biên soạn. Câu truyện như sau :
         MẠNH TÔNG 孟宗(?—271)tự là Cung Vũ, người đất Giang Hạ thuộc nước Ngô thời Tam Quốc. Lúc nhỏ cha mất, mẹ thì thường hay đau yếu, khi bệnh mẹ trở nặng, thầy thuốc bảo ăn canh măng non thì bệnh sẽ khỏi, nên mẹ thường ao ước được ăn canh nấu bằng măng non. Khổ nỗi lại nhằm lúc mùa đông, măng non chưa mọc, Mạnh Tông bèn chạy ra rừng tre ôm những cây tre mà khóc, rồi mệt lả mà thiếp đi. Khi tỉnh dậy thì đã thấy chỗ nước mắt rơi xuống có mấy mụt măng trổ đất mọc lên. Mạnh Tông cả mừng bèn bứng lấy đem về nấu canh măng dâng lên cho mẹ ăn. Quả nhiên hôm sau bà mẹ đã mạnh khoẻ trở lại. Vì có tiếng là hiếu thảo, nên chúa Đông Ngô vời ông ra làm quan đến chức Tư Không. Người đời sau có thơ khen rằng :
                    泪滴朔風寒     Lệ trích sóc phong hàn,
                    蕭蕭竹數竿。   Tiêu tiêu trúc sổ can.
                    須臾冬笋出,   Tu vu Đông Duẩn xuất,
                    天意報平安。   Thiên ý báo bình an.
        Có nghĩa :
                        Lệ rơi gió bấc lạnh lùng,
                    Lưa thưa vài khóm trúc rừng héo hon.
                        Phút đâu vài mụt măng non,
                    Chui ra từ đất trời còn thương nhau.
      Về sau vào mùa đông có một loại tre cho loại măng màu xám giống y như vậy, ăn rất ngon, được gọi là măng Mạnh Tông.
                         Inline image
      Trong chương trình cổ văn của lớp Đệ Thất (nay là lớp 6) ngày xưa, học sinh phải học hai tác phẩm “Lục Súc Tranh Công” và “Nhị Thập Tứ Hiếu” của Cử Nhân Lý Văn Phức (1785-1849) diễn Nôm bằng thể Song thất Lục bát. Bài “MẠNH TÔNG KHÓC MĂNG” được diễn Nôm như sau :
                   Ngô Mạnh Tông phụ thân sớm khuất,
                   Thờ mẫu thân lòng thực khăn khăn.
                   Tuổi già trằn trọc băn khoăn,
                   Khi đau nhớ bát canh măng những thèm.
                   Trời đông tuyết biết đâu tìm được,
                   Chốn trúc lâm phải bước chân đi.
                   Một thân ngồi dựa gốc tre,
                   Ôm cây kêu khóc nằn nì với cây.
                   Giữa bình địa phút giây bỗng nứt,
                   Mấy giò măng mặt đất nẩy sanh.
                   Đem về nấu một bữa canh,
                   Ăn rồi bệnh mẹ lại lành như xưa.
                   Măng mùa lạnh bây giờ mới thấy,
                   Để về sau nhớ lấy cỏ cây.
                   Cho hay hiếu động cao dày,
                   Tình sâu cũng khiến cỏ cây cũng tình.
            Inline image
      Đầu mùa Đông ta có Tiết Lập Đông 立冬 là thời điểm giao mùa giữa thu và đông, khi trời tàn thu bắt đầu chuyển lạnh để sang mùa đông rét mướt. Thi nhân cũng chuyển vận từ gió heo may hiu hắt sang gió tuyết lạnh lùng, tiêu biểu như bài lục ngôn thi LẬP ĐÔNG, là bài thơ 6 chữ hiếm hoi rất độc đáo của Thi Tiên Lý Bạch như sau đây :
                  凍筆新詩懶寫,   Đống bút tân thi lãn tả,
                  寒爐美酒時温。   Hàn lô mỹ tửu thời ôn.
                  醉看梅花月白,   Túy khan mai hoa nguyệt bạch,
                  恍疑雪落前村。   Hoảng nghi tuyết lạc tiền thôn !
       Có nghĩa :
                  Bút cóng câu thơ biếng viết,
                  Lò lạnh rượu tốt thường hâm.
                  Say nhìn hoa mai trăng sáng,
                  Ngỡ rằng tuyết phủ đầu thôn.
       Lục bát :
                  Bút lạnh biếng viết câu thơ,
                  Lò tàn lửa tắt hững hờ rượu hâm.
                  Say nhìn mai trắng trăng ngân,
                  Chập chờn như tuyết trắng ngần xóm xa !
               Inline image
       Bài thơ của Thi Tiên làm cho ta nhớ đến hai câu thơ tả Hoa Mai Nở Sớm (Tảo Mai 早梅) của nhà sư Tề Kỷ 齊己 ở cuối đời Đường là :
                 Tiền thôn thâm tuyết lý,    前村深雪裏
                 Tạc dạ nhất chi khai.         昨夜一枝開。
      Có nghĩa :
                   Xóm xa trong tuyết đêm qua,
                Một cành mai sớm nở ra trắng ngần.
      Và hai câu thơ trên lại làm cho ta nhớ đến hai câu cuối trong bài kệ “Cáo Tật Thị Chúng 告疾示眾” của Mãn Giác Thiền Sư 滿覺禪師 của Việt Nam ta là :
                莫謂春殘花落尽,    Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
                庭前昨夜一枝梅!    Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
     Có nghĩa :
                Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
                Ngoài sân, đêm trước, nở cành mai!
               Inline image
       Năm Hội Xương thứ hai đời Đường Vũ Tông (842) Đỗ Mục 杜牧 đã 40 tuổi, vì tính cương trực nên bị Tể Tướng Lý Đức Dũ tâu với vua biếm đến đất Hoàng Châu, Trì Châu rồi Mục Châu… Khi bị đày đến làm Thứ Sử Mục Châu lại nhằm lúc vào đông, năm hàn tháng lạnh tha hương một thân một bóng, đêm đông lạnh lẽo ngồi uống rượu một mình đã cảm tác nên bài “SƠ ĐÔNG DẠ ẨM 初冬夜飲” (Đầu đông đêm uống rượu một mình) như sau :
                淮陽多病偶求歡,  Hoài Dương đa bệnh ngẫu cầu hoan,
                客袖侵霜與燭盤。  Khách tụ xâm sương dữ chúc bàn.
                砌下梨花一堆雪,  Thế hạ lê hoa nhất đôi tuyết,
                明年誰此憑闌干。  Minh niên thùy thử bằng lan can.
       Thân ta nhiều bệnh tật như là Cấp Ảm 汲黯 Thái Thú của quận Hoài Dương vậy, nên đôi khi cũng tìm vui trong chén rượu. Người khách tha hương hai tay áo nhuốm đầy phong sương chỉ làm bạn với cái giá nến cô độc nầy mà thôi. Dưới thềm  tuyết đã đùn lên trắng xóa như hoa lê; không biết là sang năm còn có ai ngồi tựa lan can nầy (để uống rượu một mình như ta nữa không ?)
                  Hoài Dương nhiều bệnh chợt tìm vui,
                  Tay áo phong sương bên nến côi.
                  Trắng xóa dưới thềm hoa lê tuyết,
                  Sang năm ai biết có ai ngồi !?
       Cũng uống rượu trong đêm đông, nhưng Bạch Cư Dị 白居易 lại uống một cách thư thái nhàn nhã, với một vò rượu mới ủ, với một bếp than hồng nho nhỏ, trong khi ngoài trời tuyết lại sắp rơi, dám hỏi bạn rằng : Bạn có thể đến cùng tôi để chúng ta cùng uống với nhau một chén rượu trong đêm đông lạnh lẽo nầy hay chăng ? Thật nên thơ và thật nhẹ nhàng thi vị biết bao ! Ta cùng đọc bài ngũ ngôn tuyệt cú “VẤN LƯU THẬP CỬU 問劉十九” (Hỏi chàng Lưu Thập Cửu) của Bạch Cư Dị sau đây nhé !
                  Inline image
                  綠螘新醅酒,    Lục nghĩ tân phôi tửu,
                  紅泥小火爐。    Hồng nê tiểu hỏa lô.
                  晚來天欲雪,    Vãn lai thiên dục tuyết,
                  能飲一杯無?    Năng ẩm nhất bôi vô ?
       Có nghĩa :
                     Rượu vừa mới ủ xanh xanh,
                 Lò đất nho nhỏ cháy quanh lửa hồng.
                     Trời như muốn tuyết đêm đông,
                Gặp nhau uống chén rượu nồng được chăng ?                
       Đọc bốn câu thơ trên lại làm cho ta nhớ đến bản nhạc “Về Dưới Mái Nhà” của nhạc sĩ Xuân Tiên với các câu…
                      … Người ơi ! Mau về đây,
                          Về bên bếp hồng tay cầm tay…
       Mùa đông luôn rét mướt với cảnh vắng lặng của núi rừng không một bóng chim chóc vãng lai; Trên các nẻo đường cũng vắng bóng người qua kẻ lại; Hoạ hoằn lắm mới thấy được một ông câu khoát chiếc áo tơi buông câu trên dòng sông tuyết băng lạnh lẽo… như trong bài “GIANG TUYẾT 江雪” của Liễu Tông Nguyên 柳宗元, một trong “Đường Tống Bát Đại Gia” như sau :
                  千山鳥飛絕,    Thiên sơn điểu phi tuyệt,
                  萬徑人蹤滅。    Vạn kính nhân tông diệt.
                  孤舟蓑笠翁,    Cô chu toa lạp ông,
                  獨釣寒江雪。    Độc điếu hàn giang tuyết !
        Có nghĩa :
                       Ngàn núi chim bay hết,
                       Muôn nẻo bóng người tuyệt.
                       Áo tơi một lão ông,
                       Buông cần trên sông tuyết !      
       Câu “Vạn kính nhân tông diệt” làm ta nhớ đến câu “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” của cụ Tam Ngyên Nguyễn Khuyến nhà ta …

Inline image

       Nói đến mùa đông là nói đến hoa mai và tuyết trắng. Trong cảnh đông hàn lạnh lẽo, khi các cỏ cây hoa lá khác đã héo tàn thì hoa mai lại ngạo nghễ vươn lên trong tuyết lạnh với màu trắng tinh khiết và hương thơm nhẹ thoảng một cách cao nhã chẳng khuất phục trước thiên nhiên khắc nghiệt của thời tiết. Thôi Đạo Dung 崔道融 một thi nhân ở cuối đời Đường, mặc dù chỉ là một viên Huyện lệnh nhỏ nhoi nhưng lại tự hào với nhân cách cao khiết của mình qua bài ngũ ngôn luật thi MAI HOA 梅花 như sau :
                 數萼初含雪,   Sổ ngạc sơ hàm tuyết,
                 孤標畫本難。   Cô tiêu họa bổn nan.
                 香中別有韻,   Hương trung biệt hữu vận,
                 清極不知寒。   Thanh cực bất tri hàn.
                 橫笛和愁聽,   Hoành địch hòa sầu thính,
                 斜枝倚病看。   Ta chi ỷ bệnh khan.
                 朔風如解意,   Sóc phong như giải ý,
                 容易莫摧殘。   Dung dị mạc thôi tàn !
    * Có nghĩa :
       – Mấy đài hoa xanh còn đọng tuyết ôm ấp lấy mấy cánh hoa vừa mới nở…
       – Cô đơn ngạo nghễ vươn lên, khó mà vẽ nên được cái thần thái vốn có kia
       – Trong mùi thơm thoang thoảng có cái phong vận đăc biệt riêng,
       – Vẻ thanh tân đến cùng cực nên không xem cái lạnh vào đâu cả.
       – Khúc sáo “Mai hoa lạc” hòa vào sự buồn thương của người nghe,
       – Với cành nhánh nghiêng chao trong tuyết giá trông như đang bệnh.
       – Gió bấc kia nếu như hiểu được cái ý tình của hoa mai, thì xin…
       – Chớ dễ dàng mà nổi cơn cuồng nộ làm cho hoa mai phải tàn tạ tả tơi !
   * Diễn Nôm :
                               MAI HOA
                  Inline image
                  Đài hoa điểm tuyết trắng ngần,
                  Thanh cao ngạo nghễ khó phần vẽ nên.
                  Trong hương phong vận không tên,
                  Thanh tân hết mực nên quên lạnh hàn.
                  Sáo ai sầu khúc mai tàn,
                  Nghiêng chao cành nhánh nhẹ nhàng tợ đau.
                  Bắc phong điêu nghệ chút nào,
                  Chớ đem buốt giá lao đao nhánh cành !
       Còn Tể Tướng Vương An Thạch đời Tống thì nhẹ nhàng, bình dân và đơn giản gãy gọn hơn với bài ngũ ngôn tuyệt cú sau đây :
                   牆角數枝梅,    Tường giốc sổ chi mai,
                   凌寒獨自開。    Lăng hàn độc tự khai.
                   遙知不是雪,    Dao tri bất thị tuyết,
                   為有暗香來。    Vị hữu ám hương lai !
        Có nghĩa :
                   Gốc tường mấy cành mai,
                   Lạnh lẽo vẫn nở hoài.
                   Xa trông nào phải tuyết,
                   Vì hương thoảng mũi ai !
        Lục bát :
                   Góc tường nọ mấy cành mai,
                   Lạnh tràn vẫn cứ nở hoài không thôi.
                   Xa trông chẳng phải tuyết rơi 
                   Vì làn hương nhẹ khắp nơi thoảng mùi !
                  Inline image
       Có MAI có TUYẾT rồi còn phải có THƠ nữa thì mới đủ “Bộ Ba” nhã hứng của thi nhân ngày xưa. TUYẾT MAI Nhị Thủ 雪梅二首 là hai bài thơ thất ngôn tứ tuyệt nói về MAI TUYẾT và THƠ của thi nhân Lư Mai Pha 盧梅坡 đời Nam Tống. Hai bài thơ đã nói lên sự gắn bó không thể tách rời giữa Hoa mai, Tuyết trắng và Thơ ca; một sự kết hợp tuyệt vời của “Ba trong Một” mà nếu thiếu mất Một thì sẽ không thể tạo nên cái không gian và cảnh trí đẹp đẽ đặc sắc của buổi đông hàn giá buốt. Mời tất cả cùng đọc và thưởng thức…
                      其一                      Kỳ Nhất
                梅雪爭春未肯降,   Mai Tuyết tranh xuân vị khẳng hàng,
                騷人擱筆費評章。   Tao nhân các bút phí bình chương.
                梅須遜雪三分白,   Mai tu tốn tuyết tam phân bạch,
                雪却輸梅一段香。   Tuyết khước thâu mai nhất đoạn hương.
* Chú thích :
       – Hàng 降 : là đầu hàng, là Chịu thua. VỊ KHẲNG HÀNG là Chẳng chịu thua.
       – Tao Nhân 騷人 : là Tao nhân mặc khách chỉ khách văn chương, văn nhân thi sĩ.
       – Các Bút 擱筆: là Gác bút, không viết được.
       – Bình Chương 評章 : là bình phẩm về văn chương thi ca.
       – Tốn 遜 : là Khiêm tốn; là nhường nhịn, là Sút kém.
       – Thâu 輸 : là Thua, là Sút kém.
* Nghĩa bài thơ :
      – Mai và Tuyết cùng tranh nhau mùa xuân mà chẳng ai chịu nhường ai cả.
      – Các tao nhân mặc khách cũng đành gác bút không muốn phí lời bình phẩm.
      – Bạch Mai thì sút kém hơn Tuyết ba phần về sắc trắng. Còn…
      – Tuyết thì thua Mai vì Mai còn có một làn hương thơm thoang thoảng.
* Diễn Nôm :
                   Mai tuyết tranh xuân chẳng chịu nhường,
                   Thi nhân gát viết phí lời suông.
                   Mai thì nhường tuyết ba phần trắng,
                   Tuyết lại thua mai một thoáng hương !
         Lục bát :
                   Tranh xuân Mai Tuyết chẳng nhường,
                   Thi nhân gác bút hết đường cân phân.
                   Mai thua Tuyết trắng ba phần,
                   Tuyết thì lại chịu mai gần thoáng hương !
              Inline image
                    其二                Kỳ Nhị
               有梅無雪不精神,   Hữu Mai vô Tuyết bất tinh thần,
               有雪無詩俗了人。   Hữu Tuyết vô Thi tục liễu nhân.
               日暮詩成天又雪,   Nhật mộ Thi thành thiên hựu Tuyết,
               與梅並作十分春。   Dữ Mai tịnh tác thập phân Xuân !
* Chú thích :
    – Bất Tinh Thần 不精神 : Chỉ Không có cái thần thái cao nhã thanh khiết.
    – Tục Liễu nhân 俗了人 : Chỉ Con người trở nên phàm tục, tầm thường.
    – Tịnh Tác 並作 : là Cùng tương tác để tạo nên…
    – Thập Phân Xuân 十分春 : là Mười phần xuân, chỉ mùa xuân trọn vẹn đầy đủ.
* Nghĩa bài thơ :
      – Có Mai mà không có Tuyết thì sẽ như thiếu đi cái thần thái cao nhã.
      – Đã có Tuyết rồi nếu không có Thơ thì như quá phàm tục tầm thường.
      – Trong cảnh trời chiều khi Thơ mới làm xong thì trời lại đổ Tuyết…
      – Hợp cùng với hoa Mai nữa là mùa Xuân đã trọn vẹn cả mười phân vẹn mười rồi !
* Diễn Nôm :
                  Có Mai không Tuyết chẳng tinh thần,
                  Có Tuyết không Thơ phàm tục nhân.
                  Chiều xuống thơ thành trời lại tuyết,
                  Hợp cùng Mai nở cả mùa Xuân !…   
        Lục bát :
                  Có Mai không Tuyết tầm thường,
                  Không thơ có Tuyết tầm thường càng nhanh.
                  Trời chiều Tuyết đổ Thơ thành,
                  Hợp cùng Mai nở xuân xanh vẹn mười !             
                 Inline image
    Ta thấy…
          Trong khi hoa mai nở sớm trong làn tuyết trắng bay bay là đã báo hiệu cho mùa xuân đã đến. Mai nở trong tuyết, tuyết vờn quanh mai tạo nên một bức tranh cao nhã đầy thi vị của xuân tươi, nên cần có thơ để thăng hoa nâng cảnh trí nên thơ của buổi tàn đông và đầu xuân lên tuyệt đĩnh. Tác giả đã ngắm tuyết rơi, thưởng thức hoa mai nở và ngâm thơ xuân MAI TUYẾT trong tinh thần thẩm mỹ cao độ giữa MAI TUYẾT và THƠ một cách vô cùng nên thơ thi vị. Cụ Nguyễn Du cũng đã mượn cái cao nhã tinh khiết của Mai, của Tuyết của hai bài thơ nầy để tả vẻ đẹp thuần khiết trong trắng và cao quý của chị em Thúy Kiều và Thúy Vân :
                     MAI cốt cách TUYẾT tinh thần, 
                  Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười ! 
       Không phải chỉ có Hoa Mai là nở trong mùa đông, ở Việt Nam ta còn có HOA CÚC nữa. Mặc dù hoa Cúc là loài hoa tiêu biểu tượng trưng cho mùa thu, nhưng vào đông Cúc vẫn cứ nở rộ rực rở như đang tranh đẹp với hoa Mai vậy. Ta hãy đọc bài thất ngôn tứ tuyệt “ĐÔNG CÚC 冬菊” sau đây của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì sẽ rõ :
                    一種延年館裡栽,   Nhất chủng diên niên quán lý tài,
                    晚香獨向雪中開。   Vãn hương độc hướng tuyết trung khai.
                    莫笑爭芳時太晚,   Mạc tiếu tranh phương thời thái vãn,
                    先春肯讓一枝梅。   Tiên xuân khẳng nhượng nhất chi mai ?!
     Có nghĩa :
        – Có một loài hoa được trồng quanh năm trong nhà trong quán;
        – Có một mùi hương độc đáo về đêm thường hướng vào trong tuyết mà nở.
        – Chớ cười là cùng tranh thơm một cách qúa muộn màng.
        – Trước khi mùa xuân đến, há chịu nhường cho một cành mai hay sao ?!
          (Có nghĩa là trong mùa đông nầy hoa cúc ta vẫn còn đẹp còn thơm lắm, chẳng có thua gì hoa mai kia chút nào cả !)
                    Loài hoa trồng tỉa suốt năm dài,
                    Đêm xuống hương thơm dựa tuyết khai.
                    Chớ bảo tranh thơm đà qúa muộn,
                    Trước xuân há dễ chịu nhường mai !  
          Lục bát :
                    Suốt năm trồng tỉa quanh nhà,
                    Đêm đông tuyết xuống hương xa dịu dàng.
                    Tranh thơm chớ bảo muôn màng,
                    Trước xuân há chịu nhượng nàng mai kia !           
                 Inline image
        Nhân nhắc đến CÚC và MAI lại nhớ đến bốn câu cuối trong bài THẦN ĐỒNG THI 神童詩 của Uông Thù 汪洙 đời Tống là :
                  春游芳草地,    Xuân du phương thảo địa,
                  夏賞绿荷池。    Ha thưởng lục hà trì.
                  秋飲黄花酒,    Thu ẩm hoàng hoa tửu,
                  冬吟白雪詩。    Đông ngâm bạch tuyết thi.
        Có nghĩa :
                      Xuân du trên thảm cỏ non,
                  Hè thì thưởng ngoạn sen tròn trên ao.
                      Thu nhâm nhi rượu cúc đào,
                  Đông ngâm thơ tuyết thú nào hơn ta !
       Lại nhớ đến năm xưa, khi theo học lớp Đồng Ấu, thầy giáo đã cho học bài Học Thuộc Lòng (trong “Quốc Văn Giáo Khoa Thư”?) như sau :
                 Mùa xuân ấm áp khỏe người,
             Hè thời nóng bức lửa trời nấu nung.
                Mùa Thu gió mát trăng trong,
             Mùa Đông rét mướt cho lòng xót xa.
                  Kẻ giàu mớ bảy mớ ba,
            Người nghèo biết lấy chi mà che thân !
       “Mớ bảy mớ ba” vì nằm trong nệm ấm chăn êm, còn trong đêm đông vẫn lang thang không nhà sống đời cô lữ, thì làm sao mà “mớ bảy mớ ba” cho được ! Để kết thúc bài viết “ĐÔNG là Mùa Đông” nầy, xin mời tất cả cùng lắng lòng với lời hát trong bản nhạc Thời Tiền Chiến “ĐÊM ĐÔNG” rất nổi tiếng của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sáng tác vào năm 1939 của thế kỷ trước qua tiếng hát độc đáo của nữ ca sĩ Thanh Lam :
         Mời bấm vào link dưới đây để nghe nhạc :
                       https://www.youtube.com/watch?v=2CS1USajeBA

                                                  ĐỖ CHIÊU ĐỨC

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Các bài liên quan

La Nghiep
Góc Đường thi : THU OÁN  của La Nghiệp
 LA NGHIỆP 羅鄴 (825-900?) người đất Dư Hàng (thuộc tỉnh Chiết Giang ngày nay). Ông là thi nhân ở cuối...
Xem tiếp...
unnamed
Góc Đường Thi : NGUYỆT DẠ ỨC XÁ ĐỆ Đỗ Phủ
Mùa thu năm Càn Nguyên thứ 2 đời vua Đường Túc Tông (759), Đỗ Phủ từ Hoa Châu bỏ quan chạy về đất Tần...
Xem tiếp...
unnamed
Cổ Thi : TƯ BIÊN Lý Bạch
                                       Đây là bài thất ngôn cổ thi của Thi Tiên Lý Bạch, làm vào năm...
Xem tiếp...

Các bài viết mới khác

La Nghiep
Góc Đường thi : THU OÁN  của La Nghiệp
 LA NGHIỆP 羅鄴 (825-900?) người đất Dư Hàng (thuộc tỉnh Chiết Giang ngày nay). Ông là thi nhân ở cuối...
H1
BẠN SÁCH
Hai năm nay tôi quen được anh Tăng Bình , luong y ở huyện Hóc Môn. Anh lớn hơn tôi vài tuổi nhưng còn...
H1
THĂM  BỬU PHONG CỔ TỰ
Hôm qua tôi đi chơi núi Bửu Long, Biên Hòa, có đến thăm Bửu Phong cổ tự! Chụp hình phía trước ngôi cổ...
h8
MÙA NƯỚC NỔI ĐI CHƠI CHÙA NÚI NỔI
Chùa Núi Nổi, Phù Sơn Tự, nằm trên địa bàn xã Tân Thạnh, thị xã Tân Châu. Nay là xã Tân An, tỉnh An Giang....
dAT VÀNG
DÁT VÀNG SỢI NHỚ” – KHI THỜI GIAN CŨNG HÓA THÀNH VẾT THƯƠNG LẤP LÁNH
“Dát vàng sợi nhớ” là một bài thơ ngắn mà nặng trĩu tâm tư, như một mảnh trăng rụng giữa dòng thời gian,...

LỜI DẪN

Tin nhà

H3a
LỚP LÃO SINH HOP MẶT LẦN THỨ 8
H2
CHS NHÓM THCL NIÊN KHÓA 68 HOP MẶT Ở BÌNH ĐẠI
h0
ĐỒNG HƯƠNG CHỢ LÁCH TẠI TP.HCM HỌP MẶT MỪNG XUÂN 
Bình luận nhiều trong tuần
  • None found
Tác giả
Thống kê
Số người online: 46
Lượt truy cập: