Y DOÃN 伊尹(?~1550 TCN)tên thực là Chí 挚; DOÃN là chức quan; là người nước Hữu Sằn (Sơn Đông ngày nay), sống ở cuối đời Hạ và đầu đời Thương. Ông là nhà chính trị, nhà quân sự, nhà tư tưởng… và là công thần giúp gầy dựng nên nhà Thương.
Từ nhỏ Y DOÃN đã bị bán vào nước Hữu Sằn làm nô lệ canh nông; Ông cày ruộng ở đây và nhiều lần được Thành Thang đến mời gọi về làm việc cho bộ tộc người Thương. Sau dòng họ Hữu Sằn và bộ tộc người Thương liên hôn cưới gả nhau, nên ông mới chính thức về phục vụ cho bộ tộc người Thương. Vì tinh thông về đạo trị quốc nên được Thành Thang trọng dụng giao cho việc quốc chính. Dưới sự phò tá của Y DOÃN bộ tộc Thương đứng lên tiêu diệt vua Kiệt vô đạo của nhà Hạ và thành lập nên triều đại nhà Thương. Khi vua nhà Thương là Trọng Nhâm (Con của Thành Thang) băng hà, Y DOÃN bèn lập Thái Giáp (cháu của Thành Thang) lên thay. Thái Giáp ở ngôi ba năm, không chăm lo việc triều chính lại hoang dâm vô độ, bại hoại đạo đức triều cương. Y DOÃN bèn đày Thái Giáp ở Đồng Cung, rồi tự mình chấp chánh. Ba năm sau khi thấy Thái Giáp đã tu tĩnh ăn năn lại trả lại quyền hành cho Thái Giáp. Ông bệnh mất năm Ốc Đinh thứ tám, thọ 100 tuổi.
Y DOÃN
Trong văn học cổ, Y DOÃN được nhắc đến như một tôi trung hết lòng giúp chúa dựng nước an dân. Trong “Thiên Nam Ngữ Lục”, một tác phẩm sử thơ ở cuối đời Lê Trịnh có câu :
Lòng vàng tiết đá chẳng quên,
Y DOÃN lo tuyền Thái Giáp tiểu sinh.
Đến đời vua thứ 22 của nhà Thương là Võ Đinh 武丁(?-1192 TCN)xưng hiệu là Ân Võ, vì từ nhỏ đã lưu lạc trong dân gian, cùng lao động canh tác với dân chúng, nên rất biết giá trị của sự lao động và sự qúy giá của nông phẩm. Sau khi tức vị lại cất nhắc cho PHÓ DUYỆT 傅說 là một nhân tài mà nhà vua biết được trong thời gian sống ở dân gian. Phó Duyệt lại đưa ra áp dụng các chính sách lợi quốc an dân, tạo nên thời kỳ “Võ Đinh Thịnh Thế 武丁盛世” là thời kỳ trung hưng của nhà Thương nên PHÓ DUYỆT được xưng tụng là Thánh Nhân đầu tiên từ ngày có sử sách; và Y-PHÓ (tức Y DOÃN và PHÓ DUYỆT) thường được dùng để chỉ các bề tôi giỏi phò vua giúp nước.
Trong tác phẩm thơ Nôm “Mai Đình Mộng Ký 梅亭夢記” của Nguyễn Huy Hổ thời Nguyễn sơ có câu :
Điện Thương cùng nếm vạc mai,
Cũng trong Y PHÓ, cũng ngoài Tôn Ngô.
PHÓ DUYỆT 傅說 Y DOÃN 伊尹
Trong bài “Tài Tử Đa Cùng Phú” của Cao Bá Quát, ông tự ví mình có tài như Y Doãn và Phó Duyệt nhưng vì chưa gặp thời với các câu :
… Chòm tóc xanh vừa chấm ngang vai,
lời khí khái thì thầm Y, PHÓ.
Còn trong bài hát nói “Kẻ Sĩ” của cụ Nguyễn Công Trứ thì ông lại tự ví mình có tài như Lã Vọng và Y Doãn với các câu :
Lúc vị ngộ, hối tàng nơi bồng tất,
Hiêu hiêu nhiên ĐIẾU VỊ CANH SẰN,
CANH SẰN 耕莘 là Canh tác ở đất Hữu Sằn, chỉ ông Y Doãn lúc chưa gặp thời. Còn…
ĐIẾU VỊ 釣渭 là Câu cá trên dòng sông Vị, chỉ Lã Vọng hay Lữ Vọng lúc chưa gặp thời. Theo tích sau đây :
LÃ VỌNG 呂望(?-1015 or 1036)họ KHƯƠNG 姜, thuộc thị tộc LỮ 吕 (LÃ), tên THƯỢNG hay VỌNG; tự là TỬ NHA, nên thường được gọi với các tên : Khương Thượng, Khương Tử Nha, Lữ Vọng, Lã Vọng, Khương Thái Công, Thái Công Vọng… Ông là nhà Thao lược, nhà Chính trị, nhà Quân sự… và là công thần giúp khai sáng nhà Tây Chu (Châu). Khương Tử Nha 姜子牙 bác học đa năng, thông hiểu thiên văn địa lý, am tường việc an bang trị quốc. Nhằm lúc vua Trụ của nhà Thương bạo ngược, hoang dâm vô độ. Châu Văn Vương tìm gặp Lã Vọng đang ngồi câu bên bờ sông Vị, nên mời về bái làm “Sư Thượng Phụ”. Lã Vọng đã giúp cho Văn Vương và Võ Vương nhà Chu đất Tây kỳ tiêu diệt nhà Thương bạo ngược của Trụ Vương mà thành lập nên nhà Tây Chu. Nên…
Y, LÃ Thường dùng để chỉ bề tôi giỏi và các từ như “Điếu Vị Canh Sằn” chỉ những người tài giỏi lúc chưa gặp thời còn đang ở ẩn. Trong tác phẫm thơ Nôm khuyết danh “Lưu Nữ Tướng” có câu :
Đời xưa Y, LÃ… Vị, Sằn,
Công ra trí chúa, trạch dân ai bằng !
Lã Vọng 呂望 câu trên dòng sông Vị
Sau khi Khương Thượng giúp Chu Văn Vương và Chu Võ Vương lật đổ nhà Thương lập nên nhà Tây Chu, và sau khi Chu Võ Vương là Cơ Phát mất, thì người em thứ tư là Cơ Đán nhiếp chính phò tá Thành Vương lên ngôi. CƠ ĐÁN chẳng những là khai quốc công thần mà còn là nhà chính trị, quân sự, tư tưởng, giáo dục kiệt xuất; vì được phong ở thái ấp Chu 周 (Châu), nên thường được gọi là CHU CÔNG 周公. Và vì Thành Vương còn nhỏ nên các chú bác của Thành Vương là Quản Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc không phục liên hệ với các quý tộc khác làm phản. Chu Công phải đem binh đông chinh, bình định phản loạn; xong lại phải ổn định và phân chia lại các chư hầu, định lại lễ nhạc, phân định lại triều cương, lấy lễ để trị quốc, mở ra thời kỳ “Thành Khang Chi Trị 成康之治”. Mặc dù rất trung thành với nhà vua còn nhỏ tuổi, nhưng Chu Công vẫn mang tiếng là tiếm quyền nhà vua mà quyết định tất cả việc triều chính.
Trong tác phẩm “SÃI VÃI” của cụ Nguyễn Cư Trinh ở đàng trong, khi cho ông Sãi luận về chữ “Thương” đã viết như sau :
Thương ông CHU CÔNG trung đã nên trung còn mang tiếng dèm pha;
Thương Đức Khổng Tử thánh đà nên thánh hãy ghe phen bị nạn…
Còn trong “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” của cụ Nguyễn Du thì có câu :
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y CHU.
PHÓ DUYỆT 傅說 CHU CÔNG 周公
Ỷ MÔN 倚門 là Tựa Cửa, là nói gọn lại của thành ngữ “Ỷ MÔN Ỷ LƯ 倚門倚閭” Có nghĩa “Đứng tựa vào cửa, vào cổng làng”. Có xuất xứ từ “Chiến Quốc Sách.Tề Sách Lục 戰國策. 齊策六” của Lưu Hướng 劉向 đời Tây Hán, như sau :
Trong thời Chiến Quốc, Giả vương tôn của nước Tề mới 15 tuổi đã được Tề Mẫn Vương cho vào cung làm Thị thần hầu cận. Bà mẹ rất thương con, nên mỗi ngày khi Giả vương tôn vào chầu vua đều căn dặn hễ tan chầu là phải về nhà sớm, và mỗi ngày bà đều đứng tựa vào cửa nhà để trông ngóng con về; Hôm nào con về muộn thì bà ra đứng tựa vào cổng làng để chờ con… Nên Ỷ MÔN hay TỰA CỬA đều chỉ tình mẹ thương yêu, lo lắng và nhớ mong con mình.
Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã cho Thúy Kiều nhớ về cha mẹ khi ở lầu Ngưng Bích như sau :
Xót người TỰA CỬA hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.
Còn trong truyện thơ luật khuyết danh “Lâm Tuyền Kỳ Ngộ”(Bạch Viên Tôn Các) thì sử dụng từ Ỷ MÔN như sau :
Muôn việc kíp bây thêm dở nỗi,
Ỷ MÔN đòi đoạn hạt châu sa !
YẾN ANH 燕鸚 Chim Én và chim Anh vũ. Đúng ra phải là YẾN OANH 燕鶯 là chim Én và chim Hoàng oanh cùng bay lượn và cùng hót líu lo trong mùa xuân vui tươi ấm áp; vừa là biểu tượng của mùa xuân, vừa chỉ tình yêu vui tươi bồng bột của nam nữ đang ở lứa tuổi xuân thì. Ta hãy nghe cụ Nguyễn Du diễn tả cảnh mùa xuân trong tiết Thanh Minh :
Gần xa nô nức YẾN ANH,
Chị em sắm sửa bộ hành du xuân.
…và sự nhàm chán giữa tư thông nam nữ giao tiếp một cách phóng túng thường xuyên :
Mây mưa đánh đổ đá vàng,
Qúa chiều nên đã chán chường YẾN ANH.
Yến Anh… Oanh Yến
YẾN CHU 宴周 là Yến tiệc đời nhà Chu. Căn cứ theo sách《Chu Lễ 周禮》thì “Lễ chung nãi yến 禮终乃宴” Có nghĩa : Làm lễ xong rồi mới dự yến tiêc dùng để tiếp đãi các Chư hầu quan viên lớn nhỏ và tùy theo công lao cao thấp mà chỗ ngồi cao thấp khác nhau. Như Thiên tử thì chiếu trải 5 lớp, Chư hầu thì 3 lớp, Đại phu thì 2 lớp… theo như câu “Thiên tử chi tịch ngũ trùng, chư hầu tam trùng, đại phu tái trùng …天子之席五重,诸侯之席三重,大夫再重…”.
Trong truyện thơ Nôm “Hoa Tiên Truyện” của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện có câu :
Rồng mây một hội nghìn thu,
Gác Đường vẽ mặt, YẾN CHU tả lòng.
Yến tiệc đời nhà Chu
YẾN TƯỚC 燕雀 là Chim én và chim sẻ. Chỉ những con chim có hình dáng nhỏ nhoi, có xuất xứ từ “Điểu thú loại trong Quyển thứ tư của Ấu Học Quỳnh Lâm”《幼學瓊林.卷四.鳥獸類》:「Yến Tước an tri hồng hộc chí 燕雀安知鴻鵠志」Có nghĩa : Chim én chim sẻ làm sao biết được chí lớn của chim Hồng chim Hộc. Ý muốn nói : Kẻ tiểu nhân làm sao biết được chí lớn của người quân tử. Nên…
Trong văn học cổ YẾN TƯỚC dùng để chỉ chí khí tầm thường của những người tầm thường thấp kém. Như trong truyện thơ Nôm khuyết danh “Bích Câu Kỳ Ngộ” có câu :
Đói no cơm giỏ nước bầu,
Những phường YẾN TƯỚC biết đâu chí Hồng !?
Yến Tước an tri hồng hộc chí
YÊU ĐÀO 夭桃 là Cành đào non. Chỉ các cô gái mới lớn lên trổ mả xinh đẹp như một cành đào non rực rỡ. Có xuất xứ từ bài “Đào yêu chương Chu Nam trong Kinh Thi” 詩經.周南·桃夭 như sau :
桃之夭夭, Đào chi yêu yêu,
灼灼其華。 Chước chước kỳ hoa.
之子于歸, Chi tử vu quy,
宜其室家。 Nghi kỳ thất gia.
Có nghĩa :
Đào non mơn mởn trên cành,
Hoa đào rực rỡ xuân xanh tuổi hồng.
Cô con gái về nhà chồng,
Yên bề gia thất yên lòng mẹ cha.
Trong văn học cổ thường dùng các từ Đào Non, Đào Tơ, Thơ Đào, Đào Yêu, Yêu Đào… để chỉ người con gái mới lớn, đến tuổi lấy chồng hoặc chờ đợi lấy chồng. Như lời Thúy Kiều đã nói với Kim Trọng :
Vẻ chi một đóa YÊU ĐÀO,
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.
… Và lời của Thúy Kiều than van với mẹ khi “Một nhà Huyện với một Kiều ở trong” trước khi lên đường theo Mã Giám Sinh rằng :
Hổ sinh ra phận THƠ ĐÀO,
Công cha, nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
… Rồi lời của Vương Viên Ngoại gởi gắm Thúy Kiều cho Mã Giám Sinh :
Chút thân liễu yếu THƠ ĐÀO,
Dớp nhà đến đỗi giấn vào tôi ngươi.
桃之夭夭, Đào chi yêu yêu,
Hay như lời mụ Tú Bà đã khuyên dụ Thúy Kiều sau khi cô quyên sinh nhưng… không chết :
Lỡ chân trót đã vào đây…
Khóa buồng xuân để đợi ngày ĐÀO NON.
… đợi ngày ĐÀO NON là “đợi ngày lên kiệu hoa về nhà chồng đó”. Trong buổi tiệc đoàn viên khi Kim Kiều tái hợp, Thuý Vân với lòng tốt muốn tác hợp cho Thúy Kiều và Kim Trọng (trước mắt là chồng của mình), nên lại nói như lẫy rằng :
… Quả mai ba bảy đương vừa,
ĐÀO NON sớm liệu xe tơ kịp thì.
Sau mười lăm năm lưu lạc, chìm nổi chốn lầu xanh thì “Đào đà phai thắm” và “Liễu đà kém xanh” rồi, còn đâu mà “ĐÀO NON sớm liệu xe tơ kịp thì” nữa !